Những món ăn dân dã của vùng đất xứ Thanh như Nước mắm tép Hà Yên, phi cầu Sài, bánh răng bừa làng Trung Lập… nổi tiếng không chỉ nhờ hương vị, mà những đặc sản này còn là sản vật tiến Vua thời xưa. Cùng chúng tôi tìm hiểu những loại đặc sản Thanh Hóa nào được dùng để tiến cúng vua Chúa thời xưa nhé!
Nước mắm tép Hà Yên – Món quà dâng vua từ làng Đình Trung
Khi ta đặt chân đến làng Đình Trung, nằm trên đất Hà Yên, Hà Trung, Thanh Hóa, một hình ảnh liền hình thành trong tâm trí: những người dân làng đang tận dụng khúc sông Hoạt, chảy qua vùng đất này, để săn bắt tép, vật liệu chính để chế biến món mắm tép truyền thống và đây chính là món quà mà họ dành tặng cho vua.
Quá trình chế biến mắm tép không hề đơn giản. Tép sau khi đánh bắt về được lọc kỹ càng, không chứa bất kỳ tạp chất nào, sau đó hòa quyện với 10 bát tép, 4 bát muối tinh đã được rang kỹ và 2 bát thính. Tất cả được trộn đều nhau, rồi mang đi ủ. Lọ ủ mắm cũng phải được sử dụng nhiều lần trước khi có thể giữ được hương vị đậm đà, thơm ngon của mắm tép. Người xưa thậm chí sử dụng giấy bản để bịt miệng lọ, sau đó mang nó đi ủ trong tro bếp, mất khoảng nửa năm để mắm chín mới được đem ra sử dụng.
Nước mắm chiết từ tép là một đặc sản quý giá được dùng để tiến vua ở đất Hà Yên xưa. Ngày nay, mắm tép Hà Yên đã trở nên phổ biến hơn. Người ta nhận thấy rằng để có được nước mắm tép đặc sản, những người đến từ làng Đình Trung phải cử người đến khe Gia Giã, làng Cổ Đam ở vùng Bỉm Sơn, để đánh bắt loại tép riu nhỏ, có màu xanh và sống trong những vùng nước đầy rong rêu. Chúng có hương vị ngọt lừ khi muối thấm vào, màu sắc đỏ rực. Chỉ có loại tép này mới mang lại hương vị đặc trưng cho nước mắm.
Chế biến nước mắm là một nghệ thuật đòi hỏi sự tinh tế. Dân làng phải chọn ra người giỏi nhất để nấu nước mắm. Họ cho mắm tép vào túi vải sạch và sau đó vắt kiệt lấy nước cốt. Khi đun, người dân Đình Trung thường thêm một ít đậu xanh rang vàng, giã nhỏ vào và lấy gáo dừa nhỏ để múc ra sau khi mắm đã chín. Nhờ bí quyết độc đáo này, nước mắm khi được rót ra mang màu sắc vàng óng, lấp lánh như mật ong.
Mỗi lần, người dân làng Đình Trung sản xuất từ 40 đến 50 chai nước mắm. Những chai nước mắm này được bọc kín bằng vỏ cói, trở thành những tác phẩm nghệ thuật với sự trọng trách và lòng tự hào về thứ mắm độc đáo chỉ có ở Đình Trung. Ngày nay, để tìm được chai nước mắm tép tiến vua của người Hà Yên xưa thực sự là một nhiệm vụ khó khăn. Tuy nhiên, người dân Thanh Hóa vẫn kiêu hãnh với mắm tép và nước mắm của họ trên thị trường, trong khi đặc sản của làng Đình Trung vẫn giữ được sự nổi tiếng và danh giá.
Phi Cầu Sài tiến Vua
Tích xưa kể lại, vào thế kỷ 16 bà Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Minh Thụy, người xuất thân từ xã Văn Lộc, Hậu Lộc và là vợ của vua Lê Trung Tông, đã hỗ trợ cải tạo cầu và chợ Phủ để phục vụ nhân dân. Tưởng nhớ lòng bà, người dân đã trình diễn món ăn ngon đặc sản của địa phương.
Cầu Sài từng là nơi sinh sống của loài phi, nằm trên sông Trà kết nối hai xã Thuần Lộc (Hậu Lộc) và Hoằng Xuyên (Hoằng Hóa). Vùng đất này có môi trường nước lợ tốt cho sự sống của con phi. Thời điểm đó, phụ nữ trong làng Sài chỉ cần chờ đến khi nước sông rút, bãi cát hiện ra, và họ dùng xăm sắt để đào bới suốt cả ngày. Tuy nhiên, sau khi xây dựng các công trình đập ngăn sông, loài phi tiến vua đã biến mất ở cầu Sài.
Phi tiến vua có vỏ mỏng, ruột màu trắng sữa, và hai chiếc tua dài thò ra để tìm thức ăn. Bề ngoài, con phi có vẻ giống hệt loài trai trong sông và cũng giống con chem chép biển miền Trung, tuy nhiên, ruột của con phi lại ngon hơn nhiều, giòn sựt hơn. Trong những ngày hè nóng nực, một bát canh phi mang lại cảm giác mát mẻ từ bên trong. Cháo phi cũng là một món bổ dưỡng, thích hợp cho những người mới bình phục sau khi ốm.
Ngày nay, loài phi chỉ còn sống ở vùng cồn nổi bên ngoài đảo Nẹ, ven bờ xã Hải Lộc và khu vực cửa biển Hoằng Trường (gần khu du lịch Biển Hải Tiến). Loài phi này nhỏ hơn so với phi cầu Sài, và có giá từ 120.000 đồng đến 150.000 đồng một kg. Chỉ có những phụ nữ lớn tuổi ở Hải Lộc mới biết cách đào phi “tiến vua”.
>> > Tìm hiểu thêm về cách chế biến món Phi cầu Sài ngon nhất: https://dulichthanhhoa.org/phi-cau-sai-dac-san-xu-thanh/
Bánh răng bừa – Hương vị tưởng nhớ vua Lê Hoàn của làng Trung Lập
Khi Tết đến, trong hội làng ở thôn Trung Lập, không nhà ai có thể thiếu món bánh răng bừa. Tên gọi “răng bừa” xuất phát từ hình dáng của chiếc bánh, thon dài và nhỏ nhắn, giống như một chiếc răng bừa của những người nông dân.
Bánh răng bừa là một món đặc sản do người dân làng Trung Lập, quê hương của vua Lê Hoàn, làm ra để tưởng nhớ công lao của vua. Câu chuyện bắt nguồn từ thời xa xưa, khi vua Lê Hoàn một ngày đầu xuân tự tay đến ruộng bừa, mở đường cho một mùa vụ trồng trọt bội thu cho nhân dân. Từ đó, sau mỗi vụ mùa, người làng Trung Lập luôn dành gạo ngon và thực hiện lễ mổ lợn để làm bánh, để cúng tiến vua.
Bánh răng bừa dễ làm, nhưng không ai có thể tạo ra hương vị như người làng Trung Lập. Gạo tẻ được ngâm trong nước lạnh trong vài giờ trước khi được xay nhuyễn, sau đó được đun chảy đều trên lửa sáng tạo. Khi bột đã kết lại, nó được lấy ra. Thợ làm bánh khéo léo thêm hành khô, thịt ba chỉ và mộc nhĩ rang thơm vào bên trong chiếc bánh, tạo nên nhân đặc biệt. Sau đó, bánh được gói trong lá chuối tươi đã được qua lửa và luộc chín. Trên bàn tiệc lễ hội, đĩa bánh răng bừa toả khói và tỏa hương thơm của nhân thịt, mộc nhĩ, làm say lòng khách khi đến thăm nhà.
Hàng năm, trong ngày lễ hội Lê Hoàn, từ ngày mùng 7 đến mùng 9 tháng 3 âm lịch, người dân làng lại làm bánh răng bừa để cúng tiến và ghi nhớ công ơn của vị anh hùng dân tộc.
>>> 4 đặc sản của Thanh Hóa vào top 100 món ăn đặc sản Việt Nam
Bánh gai – Hương vị đặc sản từ làng Mía
Làng Mía, tọa lạc hữu ngạn bờ sông Chu, đã trở nên nổi tiếng với nghề làm bánh gai đặc sản. Chiếc bánh này, một tác phẩm dân dã, được tạo nên từ lá gai, gạo nếp, đậu xanh, và mật mía, và được bọc trong lá chuối khô mang nét mộc mạc. Bánh gai từng được dùng làm lễ vật dâng vua và sau đó trở thành một món không thể thiếu trong dịp giỗ anh hùng Lê Lai, Lê Lợi, và dùng để thiết đãi khách mỗi khi đến dịp Tết.
Trong những ngày hội hè, dân làng Mía thường tập trung tại sân kho để cùng nhau làm bánh. Trẻ em tham gia công việc nhặt lá, còn thanh niên nam nữ thì vừa trò chuyện vui vẻ vừa cùng nhau giã lá. Những người già có kinh nghiệm pha chế nguyên liệu, nặn bánh và gói bánh.
Việc tạo ra chiếc bánh này đòi hỏi sự công phu từ việc chọn lựa nguyên liệu cho đến quy trình làm bánh. Bánh gai sau khi luộc chín được để nguội, sau đó bóc lớp lá chuối mà không bị dính, màu sắc đen mịn của lá gai kết hợp với hương thơm của gạo nếp và hương ngọt của nhân đậu xanh, dừa nạo và mật mía. Bánh gai làng Mía, cùng với chè Sánh, chè Lược và cá rô Đầm Sét, tạo nên những đặc sản nổi tiếng của vùng đất Thọ Xuân, Thanh Hóa.
Đăng lần đầu: June 17, 2023 @ 6:18 pm
Discussion about this post